Đột quỵ ở trẻ sơ sinh
Đột quỵ là gì và mức độ phổ biến như thế nào?
Đột quỵ là hiện tượng ngừng hoặc giảm đột ngột dòng chảy của máu trong não, mức độ nghiêm trọng đủ để gây tổn thương tới não. Có hai dạng đột quỵ: thiếu máu não cục bộ và xuất huyết não:
Đột quỵ thiếu máu não cục bộ là khi lưu lượng máu tới não giảm, thường do cục máu đông gây nên, được gọi là huyết khối, tại một trong những mạch máu của não. Có hai dạng đột quỵ thiếu máu xảy ra ở trẻ nhỏ, đặc biệt ở trẻ sơ sinh: huyết khổi tĩnh mạch, khi xuất hiện một cục máu đông tại một trong các tĩnh mạch của não, và đột quỵ thiếu máu động mạch, khi có cục máu đông ở trong một động mạch não.
Đột quỵ xuất huyết não là khi một mạch máu ở trong hay gần não bị vỡ, gây chảy máu trong não.
Tỷ lệ đột quỵ ở giai đoạn sơ sinh là rất cao so với trẻ ẵm ngửa và trẻ nhỏ. Huyết khối tĩnh mạch xảy ra ở 1 trong số 6000 trẻ sơ sinh, đột quỵ thiếu máu động mạch là ở 1 trong số 4000 trẻ sơ sinh, và đột quỵ do xuất huyết não là ở 1/4000 trẻ sơ sinh. Sau giai đoạn sơ sinh, nguy cơ đột quỵ giảm một cách đáng kể, và duy trì ở mức thấp cho đến khi già.
Tại sao đột quỵ lại xảy ra ở trẻ sơ sinh?
Trong giai đoạn thai kỳ, các protein đi qua nhau thai từ mẹ sang bào thai, giúp giảm nguy cơ xuất huyết. Tuy nhiên, nó lại khiến bào thai có nguy cơ đông máu và đột quỵ cao hơn. Mặc dù vậy, thỉnh thoảng các cục máu đông có thể hình thành trong nhau thai và di chuyển vào trong dòng máu của bào thai. Các cục máu đông này cuối cùng có thể tự đi tới não của trẻ và gây đột quỵ.
Chuyển dạ và sinh nở cũng là thời điểm thường đột quỵ có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh. Sinh con có thể gây áp lực mạnh lên đầu của đứa trẻ. Tạo áp lực lên các động mạch và tĩnh mạch trong đầu trẻ có thể dẫn tới hình hành cục máu đông và gây đột quỵ.
Ngoài ra, trẻ sơ sinh chào đời có lượng máu nhiều hơn so với chúng ta, số lượng hồng cầu gấp đôi người lớn, và bản thân nó có thể dẫn tới hiện tượng đông máu. Trong vài ngày đầu sau khi sinh, mất nước cũng có thể là một vấn đề làm cho máu đông lại.
Những triệu chứng đột quỵ ở trẻ sơ sinh là gì?
Đột quỵ ở trẻ sơ sinh thường cho thấy không có triệu chứng lâm sàng, và các vấn đề thường không được nhận ra và do đó không được điều trị cho đến khi trẻ lớn hơn. Các triệu chứng thường thấy ở trẻ lớn hơn và người lớn, chẳng hạn như các vấn đề ngôn ngữ, tê một bên, hay mất cân bằng, là khó hay không thể phát hiện ra ở trẻ sơ sinh.
Với những trẻ sơ sinh thể hiện các triệu chứng, phần lớn biểu hiện với một cơn co giật. Co giật là dấu hiệu đột quỵ dễ nhận ra nhất ở nhóm tuổi này. Các triệu chứng co giật đôi khi khó thấy ở trẻ sơ sinh, và chúng gồm những biểu hiện sau:
- Các chuyển động khuôn mặt lặp đi lặp lại, gồm có mút, nhai, hay chuyển động của mắt
- Các cử động đi xe đạp hay đạp xe bất thường
- Nhìn chằm chằm
- Ngưng thở, hay tạm ngừng thở liên quan tới nhip tim chậm
- Các cử động co giật nhịp nhàng liên quan tới các cơ của mặt, lưỡi, cánh tay, chân hay các khu vực khác trên cơ thể
- Hiện tượng cứng hay co thắt các nhóm cơ
- Co giật nhanh, đơn lẻ ở một cánh tay, chân hoặc toàn bộ cơ thể
Một dấu hiệu đột quỵ nổi bật ở người lớn đó là hiện tượng suy yếu một bên của cơ thể. Tuy nhiên, não của trẻ sơ sinh chưa trưởng thành và triệu chứng này có thể không xuất hiện ở một nạn nhân đột quỵ sơ sinh. Thông thường, khoảng 15% số trẻ sơ sinh bị đột quỵ cho thấy một bên cơ thể sẽ cử động ít hơn. Hiện tượng suy yếu một bên dễ dàng nhận ra hơn khi trẻ lớn lên.
"Thuận tay" là một triệu chứng đột quỵ có thể xuất hiện sau giai đoạn sơ sinh, từ khoảng 6 tuần cho tới 6 tháng tuổi. Những đứa trẻ này có thể thích tay trái hoặc tay phải và làm được nhiều điều hơn với tay đó. Một số bậc cha mẹ nhầm lẫn điều này có nghĩa là trẻ đã đat được một bước tiến mới ở lứa tuổi đó, nhưng thực tế thì đây lại là một dấu hiệu đột quỵ. Ở những đứa trẻ khỏe mạnh, thuận tay thường không xuất hiện cho tới khoảng 12 tháng tuổi.
Những yếu tố nguy cơ gây đột quỵ ở trẻ sơ sinh là gì?
Có một số yếu tố có thể khiến trẻ có nguy cơ cao bị đột quỵ. Nếu trẻ sơ sinh bị dị tật bẩm sinh liên quan tới một lỗ ở trong tim, khiến cho các cục máu đông từ các bộ phận khác của cơ thể dễ dàng qua tim, và đi lên não. Nếu có tiền sử gia đình với vấn đề đông máu, nguy cơ đột quỵ ở trẻ sơ sinh là cao hơn. Các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng như nhiễm trùng huyết và viêm màng não cũng có thể dẫn đến hiện tượng đông máu. Các yếu tố nguy cơ khác đã được miêu tả trước đó, chẳng hạn như mất nước và quá trình sinh nở.
Làm thế nào để chẩn đoán đột quỵ ở trẻ sơ sinh?
Đôi khi đột quỵ có thể được chẩn đoán trong khi trẻ vẫn còn ở trong bụng mẹ. Thông thường hiện tượng này xảy ra khi nghi ngờ có dị tật bẩm sinh và người mẹ được làm một xét nghiệm được gọi là cộng hưởng từ bào thai (MRI). Cộng hưởng từ bào thai rất hiệu quả trong việc phát hiện đột quỵ ở thai nhi. Với một số thai nhi, nếu đột quỵ đặc biệt nghiêm trọng, có thể được phát hiện bằng siêu âm thông thường trong giai đoạn mang thai. Một khi đứa trẻ được sinh ra, có thể tiến hành chụp não thêm để xác nhận chẩn đoán này.
Ngoài ra, tất cả trẻ sơ sinh bị co giật nên được siêu âm và chụp CT ở đầu. Chúng cũng có thể phải chụp cộng hưởng từ. MRI nhạy hơn nhưng bất kỳ dấu hiệu đột quỵ có ý nghĩa nào cũng sẽ được nhìn thấy trên hình ảnh CT. Lý tưởng nhất, MRI được thực hiện trước, sau đó mới tiến hành các xét nghiệm khác được gọi là cộng hưởng từ động mạch (MRA) và cộng hưởng từ tĩnh mạch (MRI), để nhìn rõ hơn các mạch máu trong não.
Đột quỵ ở trẻ sơ sinh được điều trị như thế nào?
Mặc dù đột quỵ có thể được chẩn đoán trong thai kỳ, nhưng bào thai không thể điều trị bệnh cho đến khi trẻ được sinh ra đời. Một khi đứa trẻ được sinh ra, không thể thay đổi những tổn thương mà đột quỵ đã gây ra. Tuy nhiên, đôi khi một loại thuốc gọi là chống đông máu có thể được sử dụng để ngăn không làm cho cục máu đông xấu đi. Thuốc chống đông máu làm giảm khả năng đông máu. Nếu trẻ bị đột quỵ do thiếu máu, và không có bằng chứng nào cho thấy chảy máu trong não, thuốc chống đông máu có thể được dùng để ngăn không làm cho cục máu đông trở nên tệ hơn.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng thuốc chống đông máu là an toàn trong việc điều trị huyết khối tĩnh mạch mà không gây xuất huyết trong não. Gần một phần tư trẻ sơ sinh bị dạng đột quỵ này không dùng thuốc chống đông máu sẽ có tình trạng cục máu đông xấu đi.
Mặt khác, trẻ sơ sinh bị đột quỵ thiếu máu động mạch thường không cần dùng thuốc chống đông máu trừ khi có thêm một cục máu đông xuất hiện trong tim có khả năng di chuyển lên não.
Nếu trẻ bị đột quỵ do xuất huyết, nghĩa là xuất hiện hiện tượng chảy máu trong não, thuốc chống đông máu không nên được sử dụng vì nó làm tình trạng chảy máu tệ hơn.
Các kết quả đột quỵ ở trẻ sơ sinh là gì?
Bộ não sơ sinh “dễ uốn” do đó có khả năng hồi phục sau đột quỵ cao hơn so với não của người lớn. Các tế bào thần kinh trong não trẻ sơ sinh vẫn đang hình thành liên kết, và giúp trẻ dễ dàng chuyển các chức năng quan trọng tới các phần khác của não. Ví dụ như, nếu đột quỵ xảy ra ở phần não kiểm soát ngôn ngữ, khi lớn lên, trẻ có thể chuyển chức năng kiểm soát này sang phần khác của não. Nhờ khả năng thay đổi của não bộ, trẻ sơ sinh có thể bị đột quỵ nghiêm trọng vẫn có thể phát triển thần kinh bình thường.
Nói theo cách đó, có thể xuất hiện một số biến chứng thường gặp khi trẻ sơ sinh bị đột quỵ. Bại não là biến chứng phổ biến nhất. Động kinh, các vấn đề về ngôn ngữ, các vấn đề về nhận thức hay hành vi, nhức đầu, và rối loạn co giật có thể xuất hiện như là một kết quả của động kinh sơ sinh. Các bệnh lý này yêu cầu được chăm sóc đặc biệt trong thời gian dài, để đảm bảo trẻ có cuộc sống tốt nhất có thể.
Những lưu ý để phòng chống đột quỵ ở trẻ sơ sinh?
Bởi vì nhiều trường hợp đột quỵ sơ sinh thực tế xảy ra trong giai đoạn mang thai, mọi lưu ý nên được thực hiện để đảm bảo bào thai lưu thông máu tốt khi còn trong bụng mẹ. Các bà mẹ nên ăn uống hợp lý, tránh xa khói thuốc, và tránh bị mất nước.
Nếu người mẹ có tiền sử gia đình hay bệnh sử bị rối loạn đông máu, cần được xét nghiệm xem có vấn đề về di truyền được gọi là Yếu tố V Leiden, có thể gây đông máu ở trẻ nhỏ. Nếu các bác sĩ biết trẻ bị mắc căn bệnh này, họ có thể thực hiện các bước cần thiết để kiểm soát.
Nếu trẻ có quá nhiều hồng cầu, có thể xuất hiện khi có vấn đề trong giai đoạn thai kỳ hoặc sinh nở, trẻ sơ sinh dễ bị phát triển các cục máu đông. Đôi khi đột quỵ có thể được phòng ngừa ở trẻ sơ sinh bằng cách truyền thay máu từng phần theo đó máu được pha loãng với nước muối.
Một khi trẻ được sinh ra, tình trạng mất nước cũng khiến máu đông lại. Đưa trẻ tới khám bác sĩ nếu bạn nhận thấy bất kỳ dấu hiệu mất nước nào sau đây:
- Khô miệng
- Thay ít hơn 6 tã một ngày
- Mắt khô và trũng
- Thóp trũng, là điểm mềm trên đỉnh đầu của trẻ
- Da khô
Điều quan trọng là cha mẹ nhận biết được hiện tượng đột quỵ ở giai đoạn sơ sinh. Nếu bạn cho rằng trẻ gặp vấn đề gì đó, hãy đưa trẻ tới gặp bác sĩ. Đừng lo lắng rằng bạn đang phản ứng thái quá. An toàn hơn là phải hối hận. Nếu bác sĩ xác nhận trẻ có thể bị đột quỵ, trẻ sẽ được giới thiệu tới một bác sĩ nhi khoa để tiến hành kiểm tra.
BS. Mai Phương - Tạp chí Dược Mỹ phẩm
Đọc tiếp cùng chuyên mục
Giao mùa, trẻ viêm màng não nhập viện tăng mạnh
Phòng bệnh - 24/10/2024
Giao mùa, trẻ viêm màng não nhập viện tăng mạnh
Bí quyết để chăm sóc sức khỏe toàn diện
Phòng bệnh - 22/10/2024
Bí quyết để chăm sóc sức khỏe toàn diện
Tiền mất tật mang vì tiêm khớp gối
Phòng bệnh - 11/10/2024
Tiền mất tật mang vì tiêm khớp gối
Tiêm vaccine HPV ảnh hưởng đến sinh sản không?
Phòng bệnh - 08/10/2024
Tiêm vaccine HPV ảnh hưởng đến sinh sản không?
Cách nào phòng bệnh gút?
Phòng bệnh - 08/10/2024
Cách nào phòng bệnh gút?